Chào mừng bạn đến với forum.minhha.vn, Nơi chia xẻ những thông tin bổ ích
Đăng ký  hoặc  Đăng nhập

Tường trình của phi công Mỹ bị bắn rơi ở Việt nam kỳ 1

Tường trình của phi công Mỹ bị bắn rơi ở Việt nam kỳ 1

Gửi bàigửi bởi misavn » Tháng một 02, 2014, 8:57 pm

tuongtrinh_kienthuc_4704_yyhz.jpg
Tường trình của phi công Mỹ bị bắn rơi ở Việt nam kỳ 1
- Phi công – hoa tiêu James Sauder trong suốt 11 tháng bị giam ở “khách sạn” Hilton (Hà Nội) luôn tự hỏi tại sao chiếc F-4 bay số 2 của anh ta lại bị bắn rơi.
Trong chuyên đề “Lịch sử các cuộc chiến tranh trên thế giới” của Nga có đăng tải bài viết “Đỉnh điểm” nói về các cuộc không chiến trên bầu trời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1972. Trong bài viết dài này có tiết lộ 2 đoạn tường trình phi công Mỹ kể về thời điểm họ bị bắn rơi.
Dưới đây là nội dung bản tường trình của phi công – hoa tiêu F-4B thuộc phi đội VF-51, tàu sân bay USS Coral Sea bị phi công Không quân Nhân dân Việt Nam bắn rơi ngày 27/4/1972:
“Tôi bị bắn rơi trong chuyến bay chiến đấu thứ 335 ở Việt Nam, đây là chuyến công cán thứ 3 của tôi sang Đông Dương. Tôi đã tròn 31 tuổi và mang cấp thiếu tá với tổng số giờ bay trên F-4 hơn 1.000 giờ. Trong lần xuất kích đó ghế số 1 của F-4B do trung úy phi công “non choẹt” E Molinari ngồi, còn tôi ngồi ghế số 2 (F-4B là máy bay tiêm kích đa năng 2 chỗ ngồi).
Tiêm kích F-4B không có pháo, chỉ có tên lửa không đối không (tầm ngắn AIM-9 hoặc tầm trung dẫn bằng radar AIM-7).
Theo kế hoạch, chúng tôi sẽ ném bom vào mục tiêu ở khu vực Hà Nội, nhưng bầu trời thủ đô Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đầy mây, mây kéo đến 100km về phía Nam Hà Nội. Kết cục chúng tôi bay đến mục tiêu dự bị - cây cầu ở phía Bắc Vinh. Mỗi chiếc Phantom mang 4 quả bom bi mẹ, tên lửa không đối không AIM-9 Sidewinder và AIM-7 Sparrow. Trên đường bay, chúng tôi đã tấn công đoàn xe phát hiện được trên quốc lộ 1.
Mấy phút sau khi đánh đoàn xe tải sĩ quan dẫn đường thông báo: “Hướng 360, cự li 85”. Từ sân bay Phúc Yên (Đây là sân bay Nội Bài) một chiếc MiG đơn độc cất cánh (từ phần trên thấy rõ ta có một biên đội đã xuất kích), đài radar của chúng tôi đã bắt được mục tiêu ngay sau khi nó cất cánh. Chỉ huy tốp máy bay lên tiếng: “Roger”, tôi hiểu”.
Phía dưới ở độ cao khoảng 900m mây rất dày. Tôi cho rằng chiếc MiG ở đâu đó dưới ấy, nhưng không thể phát hiện ra nó. Bất ngờ tôi nhìn thấy một lóe sáng trên kính phía trước: “ E Molinari, cậu có cảm thấy “lóe sáng” ở đường chân trời là máy bay tiêm kích?”.
Phi công lên tiếng: “Xem ra cái đó đúng là máy bay tiêm kích. Nó ở bên phải ta”. Tôi đã từng rơi vào tình thế tương tự 5 tháng trước. Khi đó máy bay của tôi là tuyệt vời, thời tiết tuyệt đẹp, mặt đất phía dưới cũng thật tuyệt vời. Khi đó mọi việc đều tốt đẹp. Còn bây giờ chúng tôi bay trên F-4B, không có radar xung doppler có thể phát hiện mục tiêu trên nền mặt đất.
Trong tai nghe vang lên tiếng của sĩ quan dẫn đường: “360 cự li 75… 360 cự li 70”. MiG đang tiến đến gần.
- “360 … 65”. Tôi linh cảm thấy là một trong hai chiếc Phantom sẽ không quay về Coral Sea được. Máy bay địch còn quá xa để tôi có thể dùng radar trên máy bay “bắt” nó. Tôi còn đủ thời gian để nghĩ về việc liệu chúng tôi có kịp chạy ra đến biển, nơi mà nếu có làm sao máy bay lên thẳng sẽ có thể lôi chúng tôi lên được.
tuongtrinh_kienthuc_4702_oemf.jpg


Tàu sân bay USS Coral Sea (CV-43) - nơi chiếc F-4B bị bắn rơi cất cánh.
- “360 … 60”. Tôi sực nhớ chỉ huy đã từng nói với chúng tôi là các máy bay tiêm kích Việt Nam có ưu thế nếu tấn công F-4 từ dưới mây khi nhận được chỉ thị mục tiêu của radar mặt đất. Các phi công Việt Nam thường sử dụng các biện pháp chiến thuật tương tự trong các trận không chiến trong các năm 1966 và 1967.
- “360 … 45” … “360 … 40 tốc độ 360”. Không hiểu vì sao tôi nghĩ trong buồng lái MiG hoặc là một lính mới, hoặc là một cựu binh đầy kinh nghiệm. Chỉ có anh chàng tuyệt đối dở hơi hoặc một át chủ bài giàu kinh nghiệm mới có thể một mình tấn công tốp Phantom. Mặt khác, phi công này bay trên quê hương, trong mây bản xứ, các đồng đội dưới đất giúp anh ta, cả bầu trời cũng giúp anh ta!
- “360 … 25”. Đúng lúc này phải mở radar. MiG-21 là máy bay nhỏ, phản xạ radar không lớn. Chúng tôi đang ở độ cao 2.400m.
- “360 … 25”. Tôi đề nghị phi công hạ độ cao đi 1.000 feet (khoảng 300m).
Chúng tôi đang giữ đội hình thông thường ở bên trái, phía sau máy bay số một khoảng 1,6km. Tôi không thể nào tìm thấy MiG trên màn hình radar. Máy bay số 1 bay ở độ cao 2.400m và tốc độ 680km/h, sau đuôi chiếc Phantom số một là một dải khói dài bằng đoàn tàu hỏa. Chúng tôi đã rất muốn tạt sang bên trái hay bên phải một chút, nhưng nhiệm vụ của số hai là bám sau số một, bất kể tình huống nào.
- “360 … 20”. Tôi căng mắt, nhưng không làm sao tìm thấy đốm sáng từ MiG trên màn hình radar.
- “360 … 15”. Khi diễn tập chúng tôi luôn được nhắc phải kiểm soát luồng phụt từ động cơ. Tôi cảm thấy như bị rơi vào năm 1962 - máy bay phun khói hơn cả tàu hỏa, cả một bày tàu hỏa. Phi công MiG không khó khăn gì để nhìn thấy luồng khói trên suốt đoạn dài 5 dặm (khoảng 8km). Chắc là, anh ta đã đưa chúng tôi vào kính ngắm. Có thể giảm luồng khói nếu chuyển từ chế độ bay tuần tiễu sang chế độ tăng tốc tối thiểu.
Phải chuyển sang tăng tốc tối thiểu, nhưng chúng ta không còn nhiên liệu để làm việc này. Lúc này biên đội máy bay của chúng tôi nằm hơi về phía đông sân bay Bái Thượng có căn cứ máy bay MiG.

tuongtrinh_kienthuc_4701_nsoj.jpg

F-4B thuộc phi đội VF-51 trên tàu USS Coral Sea trong phi vụ ở miền bắc Việt Nam.
- “360 … 10”. Tôi cố gắng nhìn gì đó qua mây. Tôi hiểu là sẽ không thể tìm ra đối tượng của đòn đánh dài ¾ dặm.
- “360 … 4”. Ở cự ly dưới 5 dặm (khoảng 8km) tín hiệu từ máy bay trên màn hình radar sẽ bị chập lại - tôi tắt radar đã trở nên vô dụng. Bây giờ mọi hi vọng chỉ còn dựa vào thị giác: tôi nhìn bán cầu phía sau máy bay số 1 - còn gì để làm nữa ngoài quan sát khoảng không giữa hai chiếc Phantom.
Tôi có thể nói, tôi tin chắc là đã bảo E Molinari: “Ở vị trí 6 giờ không có gì”. Có thể phi công đã nghĩ dường như không có ai bám đuôi CHÚNG TÔI. Đúng lúc tôi nhìn về phía sau, trong tai nghe vang lên: “Này, cậu ngủ hay sao đấy. Kiểm tra ngay 220… 4”.
Ngay lập tức tôi quay núm gạt của mình về 7 giờ – TRỜI! Đó không phải là MiG - đó là tên lửa của MiG phóng ra. Phantom bắt đầu từ từ rơi xuống. Tên lửa đã làm hỏng cả hai động cơ. Tôi túm ngay lấy tay cầm bộ phóng dù, chỉ còn phải chờ cho tốc độ giảm xuống dưới một Mach. Vẫn còn thời gian để liên lạc trên sóng cực ngắn với chỉ huy– báo cho anh ta biết là chúng tôi đã bị bắn hạ.
Tôi số 2 (nói với chiếc F-4 bay số 1). Chúng tôi bị bắn trúng, đang rơi”.
Tôi lại nhìn về phía sau, nhưng không thấy máy bay tiêm kích địch. Nhìn sang phải. Lạy Chúa, một dải sáng hẹp không cho phép nghi ngờ gì nữa: tên lửa không đối không đang lao về hướng chiếc số 1 của biên đội chúng tôi.
Tôi vẫn không thấy chiếc tiêm kích đối phương. Đầu óc không chịu hiểu những gì đang diễn ra. Tôi đã thực hiện 334 chuyến xuất kích, luôn trở về không một vết xước; mọi chuyến bay đều khá đơn giản thì MiG xuất hiện!
Tôi hét lên với phi công: “ E Molinari, quay sang trái, về phía núi! Bướm ga sao vậy?”. E Molinari trả lời: “Bướm ga trái còn 30%, cần điều khiển động cơ RUD bị kẹt. Bướm ga phải không hoạt động, cần điều khiển nó lủng lẳng như cục phân trong ống xả bồn, chắc là cái gì đó đã gẫy ra”.
Chiếc Phantom của chúng tôi có gương chiếu hậu gắn trên thanh giữ đèn pha ngay trước mặt tôi. Tôi đã rất lâu không hiểu nó để làm gì - đằng nào cũng không thể nhìn thấy trong gương chiếc máy bay bám đuôi chúng tôi. Lần này nó đã giúp nhìn rõ cái gì đang xảy ra với máy bay của chúng tôi. Tôi thấy rõ toàn bộ đuôi máy bay tiêm kích là lửa.
“Molinari, chúng ta đang cháy như những tên tội đồ trong địa ngục, nhưng hãy còn thời gian!” Tôi đã thường xuyên nghiên cứu các tập tài liệu về những chiếc Phantom bị bắn rơi, vì vậy biết rõ - máy bay cháy, nhưng rất ít khi bị nổ và hơn nữa bị nổ vì bị trúng một quả tên lửa. Chúng tôi phải thoát ra càng xa càng tốt. Molinari nhất trí với tôi” “OK”.
Molinari đưa máy bay vào lượn, nhưng là lượn PHẢI. Mà tôi thì bảo cậu ta lượn sang trái, để đến khu núi tương đối an toàn hơn. Ở vùng rừng núi dễ lẩn trốn chờ máy bay lên thẳng đến cứu hơn là ở đồng bằng
“ Molinari, cậu làm quái quỷ gì đấy!?” Cậu ta đáp: “Tôi cố lao ra biển”.
Máy bay bị nghiêng phải 30 độ. “Áp suất trong hệ thống thủy lực thế nào?”. “Bằng không”. Bây giờ, nếu Molinari kéo cần lái để đổi hướng lượn từ phải sang trái, chỗ chất lỏng công tác còn lại của hệ thống thủy lực sẽ chảy ra hết, và máy bay sẽ hoàn toàn mất điều khiển. Khi đó sẽ phải phóng dù không phải ở nơi muốn, mà là ở nơi phải làm.
Máy bay vẫn lượn sang phải như cũ và hơi trượt xuống. Tôi bắt đầu chuẩn bị phóng dù. Đúng lúc đó Molinari nói: “Nó kia, chiếc MiG kìa”.

tuongtrinh_kienthuc_4704_yyhz.jpg

Ảnh đồ họa F-4B phóng tên lửa không đối không dẫn bằng radar AIM-7 Sparrow.
“Đâu?” Tôi lập tức mở radar. “Nó bắn rơi ta, nhưng chúng ta có thể kịp bắn rơi nó. Nó đâu rồi!!!” Tôi chuyển radar sang chế độ tia quét rộng, nhưng màn hình sạch bong, dù tôi cố nhìn vào đó. Molinari mách: “MiG ở chỗ 3 giờ, ngoài vùng của anten radar. Máy bay Việt Nam bay về hướng Bắc”.
Tôi cố nhìn sang bầu trời, nhưng không thấy địch đâu cả - mắt không thể rời khỏi màn hình radar đang nháy. Tôi tắt radar, hiểu là cơ hội phát hiện ra chiếc MiG “nguyên vẹn” trên chiếc Phantom đang cháy là rất ít ỏi.
Phantom đã bị hỏng hoàn toàn, nhưng máy phát vẫn còn hoạt động, cấp năng lượng cho phần điện tử của hệ thống điều khiển vũ khí. Giá như MiG rơi vào “vùng quét” của radar thì đã có thể cố, tận dụng chỗ chất lỏng còn trong hệ thống thủy lực, kéo mũi máy bay tiêm kích lên và phóng tên lửa.
Chúng tôi chỉ còn nước phóng dù. Tôi luôn gặp may khi nhảy dù, lần này cũng vậy. Dù bung ra ở độ cao khoảng 1.500 feet (khoảng 450m), không có gió. Tôi nhìn ra khoảng không: phía dưới tôi chiếc Phantom biến thành một quả cầu lửa khổng lồ, bên trái Molinari đung đưa dưới dây dù”.
Theo các tài liệu, chiếc F-4B do kíp lái phi công Trung úy E Molinari và phi công – hoa tiêu James B.Sauder điều khiển bị biên đội tiêm kích MiG-21 do phi công Hoàng Quốc Đăng và Cao Sơn Khảo thuộc Đoàn 921 Sao Đỏ bắn rơi. Biên đội cất cánh từ Nội Bài, ở cách 6km thì phát hiện biên đội F-4B, ở cách 3km, phi công Hoàng Quốc Đăng đã phóng tên lửa vào một chiếc F-4B.
Trong suốt 11 tháng bị bắt làm tù binh tại nhà tù Hỏa Lò (hay còn được gọi với cái tên “khách sạn Hilton), phi công – hoa tiêu James B. Sauder luôn tự hỏi: “Vì sau chàng trai lái MiG lại tấn công chiếc Phantom của tôi, mà không phải là máy bay số 1?”.
RANDOM_AVATAR
misavn
Thành viên nòng cốt
Thành viên nòng cốt
Đến cấp kế tiếp:
55%
 
Bài viết: 355
Ngày tham gia: Tháng chín 27, 2012, 5:51 pm
Đến từ thành phố: ha noi
Điểm (Points): 0
Giới tính: Nam
Handphone: 0

Tường trình của phi công Mỹ bị bắn rơi ở Việt Nam (2)

Gửi bàigửi bởi misavn » Tháng một 03, 2014, 12:20 pm

tuongtrinh_kienthuc_4703_arva.jpg
Tường trình của phi công Mỹ bị bắn rơi ở Việt Nam
Phi công – hoa tiêu Đại úy Thomas J. Henton lái chiếc F-4E chẳng kịp hiểu chuyện gì đã xảy ra và chỉ kịp phóng dù ra ngoài chiếc máy bay đang cháy.
Ngày 27/6/1972, trên bầu trời Nghĩa Lộ, biên đội MiG-21 Phạm Phú Thái - Bùi Thành Liêm đánh chặn 4 chiếc F-4 Phantom. Quân Mỹ chạy các máy bay MiG tấn công trốn vào mây. Mấy phút sau, phi công Thái phát hiện chiếc Phantom ở bên trái, một biên đội ở bên phải, còn một chiếc đang vòng sang trái. Phạm Phú Thái ra lệnh cho số 2 – Bùi Thanh Liêm theo dõi hành động của tốp máy bay địch bên trái. Sau khi các phi công Việt Nam tin chắc không có máy bay nào của địch uy hiếp họ, họ đã bắt đầu tiếp cận địch.
Từ cự li 1.300m, Phạm Phú Thái phóng một quả tên lửa, Bùi Thành Liêm cũng phóng quả tên lửa từ cự li 1.500m. Cả hai quả đều trúng mục tiêu, hai chiếc tiêm kích F-4E của đơn vị không quân chiến thuật 336 đã bị hạ.
“Mục tiêu” cho Phạm Phú Thái là hoa tiêu chiếc F-4E Phantom số hiệu nhà máy 69-7271 Đại úy Thomas J. Henton mang mật danh Valint 4 hồi tưởng:
“Ba tốp của đơn vị chúng tôi sáng 27/6 là lực lượng xung kích đánh các mục tiêu đài radar của Việt Nam, tốp thứ 4 làm nhiệm vụ tuần tiễu trên không, và mỗi tốp có 4 chiếc F-4E.
Trên không phận Trung Lào, chúng tôi xếp đội hình chiến đấu mà chúng tôi gọi là Godzilla. Tuần tiễu phía xa trên biên giới Lào - Việt là một tốp của phi đội 421 anh em, còn một tốp nữa bay phía sau và bên trái lực lượng xung kích.

tuongtrinh_kienthuc_4703_arva.jpg

Phi đội tiêm kích F-4 của Không quân Mỹ.
Vẫn còn một phi đội nữa của đơn vị chúng tôi (phi đội tiêm kích chiến thuật số 4) đã cho 2 tốp yểm trợ lực lượng xung kích. Chỉ huy cả đoàn dẫn đầu 2 tốp bay bên trái các máy bay F-4 Phantom đầy bom. Chúng tôi chờ MiG công kích trước hết là từ phía trái.
Ba tốp của chúng tôi đã đến mục tiêu thì phát hiện 2 chiếc MiG. Chiếc thứ nhất đã bỏ thùng dầu phụ, nhưng đã mất yếu tố bất ngờ, và chiếc này không công kích nữa. Chúng tôi không thể nhìn thấy nó bằng mắt thường, MiG cách chúng tôi khoảng 40 Km, nhưng trên màn hình radar thì thấy MiG rất rõ. Chúng tôi quần trên khu vực giữa Hà Nội và Hải Phòng, sau đó 12 chiếc Phantom bay về nơi gặp máy bay tiếp dầu.
Trong lúc chúng tôi “bú sữa” máy bay tiếp dầu, sở chỉ huy mặt đất điều hành đội cứu hộ đi cứu các tổ lái của 2 chiếc Phantom bị bắn rơi buổi sáng. Chúng tôi đang ở phía Đông Bắc Hà Nội, bảo vệ chiếc máy bay dẫn đường hàng không phía trước
Một chiếc F-4E do tổ lái có kinh nghiệm lái làm nhiệm vụ máy bay dẫn đường hàng không bay nhanh phía trước. Công việc của những máy bay này trên bầu trời Bắc Việt Nam được cho là hết sức nguy hiểm. Chúng tôi có nhiệm vụ bảo vệ chiếc Phantom này và đội máy bay cứu hộ.
Chúng tôi nhận được thông tin các máy bay tiêm kích MiG-21 của Không quân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đang tiến đến gần từ phía Hà Nội.
Chỉ huy tốp lập tức ra lệnh bỏ thùng dầu phụ. Chúng tôi triển khai đội hình về phía Hà Nội để có thể nhìn thấy đối phương bằng mắt thường. Cuộc truy đuổi không mang lại kết quả. Do tăng tốc và bỏ thùng dầu phụ nên chúng tôi lại phải tìm máy bay tiếp dầu.

phantom_kienthuc_4702_trss.jpg

F-4 đang được tiếp nhiên liệu trên không.
Sau lần tiếp dầu tiếp theo, lần thứ 3 chúng tôi lại quay về bầu trời Bắc Việt Nam. Lượng dầu trong thùng chứa trên máy bay chỉ cho phép bay một vòng trong khu vực máy bay dẫn đường hàng không phía trước, sau đó trở về căn cứ Udon gần nhất trên đất Thái Lan. Thời tiết tốt, trời sáng, không có nguy cơ lạc đường, nếu không nhiên liệu sẽ không đủ cho một vòng bay.
Chúng tôi quay về nơi tuần tiễu. Chỉ huy truyền lệnh: “Chúng tôi đang ở đây, có 4 chiếc, Valint. Tôi thì hỏi phi công của mình là Lynn Aikman về nhiên liệu còn bao nhiêu. Aikman không trả lời bằng máy đàm thoại, mà bằng vô tuyến điện “Tôi Valint 4” - tôi hết nhiên liệu!” Chỉ huy tốp không nói gì, và điều đó cũng không có gì đáng ngạc nhiên: chúng tôi cố dùng vô tuyến ở mức tối thiểu. Chúng tôi tiếp tục bay về phía Hà Nội.
Do nguy cơ từ phía hệ thống phòng không của Bắc Việt Nam nên chúng tôi phải thường xuyên cơ động với quá tải lớn, điều đó đã làm giảm nhanh lượng nhiên liệu trong các thùng chứa của Phantom.
Dự trữ nhiên liệu nhanh chóng đến gần mức nguy hiểm, mức chỉ cho phép về đến Udon và hạ cánh ngay lần định hạ cánh đầu tiên. Với lượng dầu như vậy thậm chí chúng tôi cũng không thể nhận tiếp dầu thêm từ máy bay tiếp dầu, không đủ nhiên liệu bay đến điểm gặp máy bay tiếp dầu và tiếp cận nó. Vậy mà chỉ huy vẫn kéo chúng tôi về phía Đông.
Nếu gặp MiG lượng nhiên liệu thấp không cho phép thực hiện thậm chí cơ động nhỏ. Một lần nữa Lynn cảnh báo chỉ huy về lượng nhiên liệu chỉ còn ít. Lynn đã cố gắng bằng mọi cách tiết kiệm nhiên liệu. Đúng lúc đó có tin MiG xuất hiện, khoảng cách lúc này là 25km - tiêm kích địch chưa phải là nguy cơ trực tiếp.

tuongtrinh_kienthuc_4705_bugr.jpg

Ảnh đồ họa MiG-21 phóng tên lửa đối không K-13.
Để tiết kiệm nhiên liệu Lynn lợi dụng sức hút Trái Đất: Anh ta cho Phantom bổ nhào, tích lũy tốc độ, sau đó nhờ tốc độ đã tăng lên khi lao xuống cho máy bay ngóc đầu lên. Khi cơ động như vậy 3 chiếc Phantom khác của tốp chúng tôi thực tế luôn ở độ cao lớn hơn. Chúng tôi rất hi vọng sẽ gặp may.
Hóa ra, chả ích gì. Máy bay như bị một búa giáng mạnh: tên lửa do MiG-21 phóng ra đã trúng Phantom.
Tôi thậm chí không thể hiểu nổi điều gì đã xảy ra. Máy bay bị mất điều khiển, động cơ bên trái bốc cháy, hệ thống thủy lực điều khiển các cánh lái bị hỏng. Tôi chuẩn bị phóng dù, mắt không rời khỏi đồng hồ độ cao.
Như chúng tôi đã thống nhất trước khi bay, nếu độ cao giảm đến dưới 450 mét thì phải phóng dù. Chúng tôi đạt đến độ cao phóng dù nhanh khó tưởng tượng nổi.
Tay phải tôi nắm lấy cần phóng dù nằm giữa hai chân. Phi công đã phóng dù cả hai ghế. Bộ phận đàm thoại của chúng tôi không hoạt động, vì vậy phi công đã không báo cho tôi trước khi phóng dù, may mà tôi đã giữ được tư thế đúng trong ghế ngồi”.
Phi công – hoa tiêu Đại úy Thomas J. Henton sau khi nhảy dù đã bị quân dân ta bắt sống và đưa về nhà tù Hỏa Lò. Viên phi công này được trao trả ngày 27/3/1973 cùng nhiều phi công Mỹ khác.
Nguyễn Vũ
RANDOM_AVATAR
misavn
Thành viên nòng cốt
Thành viên nòng cốt
Đến cấp kế tiếp:
55%
 
Bài viết: 355
Ngày tham gia: Tháng chín 27, 2012, 5:51 pm
Đến từ thành phố: ha noi
Điểm (Points): 0
Giới tính: Nam
Handphone: 0


Quay về Các tin hay/Các bài viết hay (News - Special Reports)

Points: 0

cron